Ông Michael Dukakis đánh giá cao và trân trọng vai trò lãnh đạo dẫn dắt đổi mới và tư tưởng tin dân, dựa vào dân, phát huy sức mạnh nhân dân của chú Sáu. Ông nói nếu Việt Nam có một môi trường để mọi công dân được phát huy cao nhất năng lực của mình như tâm nguyện Ở Chile, mỗi Phòng Nước Trời chi trung bình khoảng 1.400 đô-la Mỹ để thực hiện những thay đổi này. Dù ưu tiên cho việc giữ các Phòng Nước Trời được an toàn, anh em chúng ta cũng cố gắng tiết kiệm tiền đóng góp. Chẳng hạn, ở một số nước, chúng ta tận dụng việc Trước đó, ông Hiến đã nộp 600 triệu đồng. Như vậy, tính tới thời điểm hiện tại ông này đã khắc phục 1,4 tỷ đồng trong tổng số hơn 8 tỷ đồng được xác định là thiệt hại của vụ án. Như vậy, mặc dù được xác định có vai trò chủ mưu làm thất thoát hơn Ông Philatô bảo họ: "Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy." 7 Người Do-thái đáp lại: "Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa." Dàn diễn viên của bộ phim truyền hình sắp tới Bupkis của Pete Davidson tiếp tục đến với nhau và có vẻ như nam diễn viên hài với rất nhiều ngôi sao biểu tượng sẽ đóng phiên bản hư cấu của gia đình anh ấy trong chương trình. Theo Hạn chót , Joe Pesci đã tham gia vào dàn diễn viên của chương trình với vai ông nội của Davidson. Nhiều năm qua, Trương Hàn trung thành với vai diễn giám đốc giàu có, tính cách lạnh lùng, bá đạo. Tuy nhiên, kiểu vai này bị cho là không thực tế, gây nhàm chán. Các quý ông khu Đông Bát kể về nhóm 4 quý ông do Trương Hàn, Kinh Siêu, Đỗ Thuần, Hoàng Hựu Minh đóng chính. Họ GenWcv. Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Đóng vai ông Sáu kể lại 3 ngày phép. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp ngắn gọn, chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé! Nội dungĐóng vai ông Sáu kể lại 3 ngày phép – Bài mẫu 1Đóng vai ông Sáu kể lại 3 ngày phép – Bài mẫu 2 Tình cảm cha con – một đứa con gái bé bỏng có thể là là tình cảm thiêng liêng nhất trong cuộc đời của mỗi người, đối với tôi cũng đang xem Đóng vai ông Sáu kể lại 3 ngày phép Ngữ Văn 9 Tôi đi kháng chiến chống Pháp từ khi đứa con đầu lòng và cũng là đứa con duy nhất của tôi – bé Thu chư­a đầy một tuổi. Suốt mấy năm kháng chiến, vợ có lên thăm tôi, nhưng vì đường sá nguy hiểm nên không thể dắt con bé theo. Tôi chỉ được ngắm con qua tấm ảnh nhỏ mà thôi. Vậy là, trong suốt thời gian đó, hai ba con chúng tôi đã không được gặp nhau. Cho đến khi được về phép, tôi được gặp lại con. Từ đằng xa, nhìn thấy một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đang chơi ở trước sân nhà, tôi đã đoán biết được đó là Thu – con gái mình. Tôi không kịp chờ cho xuồng cập bến, nhảy xuống vui mừng gọi con bé và đưa tay đón chờ con để được ôm con vào lòng cho thỏa nỗi nhớ mong. Thế nhưng, ngược lại với sự vui mừng của tôi, con bé lúc đầu có vẻ ngạc nhiên, nó cứ đứng đấy mà tròn mắt nhìn tôi. Sau đó, dường như nó thấy lạ, chắc nó đang phân vân tự hỏi người xưng ba kia là ai. Rồi sau đó, Thu vụt chạy đi và kêu thét lên. Trước thái độ của con, tôi cảm thấy rất buồn và đau đớn. Tôi cứ đứng sững lại đó, nhìn theo con. Có lẽ, lúc ấy, nhìn tôi thật tội nghiệp, thật đáng thương! Vì đường xa nên chúng tôi chỉ ở nhà được có ba ngày. Trong suốt ba ngày đó, chúng tôi cố ý để con bé gọi tôi một tiếng ba. Nhưng không, nó rất cứng cỏi, gan lì, bướng bỉnh. Dù có những lúc phải gọi tôi vào ăn cơm hay phải nhờ tôi chắt hộ nước nồi cơm, thì nó vẫn nói trỏng và cố ý không gọi tôi lấy một tiếng ba. Tôi khổ tâm trước thái độ của con bé. Và điều mà tôi ân hận nhất, trong những ngày được ở bên con, đó là tôi đã lỡ đánh vào mong và hét lên với con khi nó không chịu nhận miếng trứng cá mà tôi gắp cho nó. Sau khi bị ba đánh, Thu chạy sang bà ngoại, và không biết ở đó, nó được bà kể cho nghe chuyện gì, nhưng đến lúc nó về nhà, tôi thấy nó có vẻ khang khác. Sáng hôm đó, bà con nội ngoại đến rất đông để chia tay chúng tôi. Tôi phải lo tiếp khách nên không chú ý được đến con bé nhiều, con bé dường như cứ đứng hết nhìn mọi người rồi nhìn tôi. Không biết lúc đó, nó đã nghĩ gì? Nhưng nhìn con bé có vẻ buồn, một vẻ buồn trông rất dễ thương với một vẽ nghĩ ngợi sâu xa. Đến lúc, tôi phải lên đường, thấy nó đứng ở góc nhà, mặc dù rất muốn ôm hôn từ biệt con để đi xa, nhưng tôi sợ nó sẽ phản ứng như lúc tôi về. Nên tôi đành chỉ đứng nhìn con bé, nhìn với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu. Thế nhưng, ngược lại với những gì tôi nghĩ. Con bé bỗng kêu thét lên Ba…a…a…ba!, rồi sau tiếng kêu như xé lòng đó, nó chạy xô tới, nhanh như sóc, ôm chặt lấy cổ tôi. Nó vừa ôm, vừa hôn tôi, vừa khóc vừa giữ không cho tôi đi. Sau khi nó được mọi người giỗ dành, mới chịu buông để tôi lên đường. Trước khi tôi đi, con bé đã không quên dặn ba mua cho một cây lược. Sau đó chúng tôi trở lại chiến trường miền Đông, chúng tôi không phải đi tập kết nữa. Một ngày, tôi đã tìm được một khúc ngà voi. Tôi muốn tự tay làm cho con gái bé bỏng của mình một cây lược thật đẹp. Hằng ngày tôi tỉ mẩn cưa từng chiếc răng lược và còn cẩn thận khắc lên đó những dòng chữ yêu thương dành tặng cho con. Tôi mong rằng, chiến tranh kết thúc, mình sẽ được trở về, trao tận tay con bé món quà nhỏ ấy. Nhưng rồi, một chuyện không may đã xảy ra với tôi. Một ngày cuối năm mươi tám – trong một trận càn lớn của Mỹ – Ngụy, tôi đã bị thương nặng. Trước lúc lìa xa cõi đời, tôi đã kịp đứa cho anh Ba – người bạn chiến đấu của mình cây lược ngà với hi vọng rằng anh sẽ thay tôi trao tận tay cho con bé. Và dường như trong cơn hấp hối, tiếng anh Ba vẫn văng vẳng bên tai tôi “Tôi sẽ mang về trao tận tay cho cháu”. Đóng vai ông Sáu kể lại 3 ngày phép – Bài mẫu 2 Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguễn Quang Sáng là một truyện cảm động nhất là đoạn kể về 3 ngày nghỉ phép của anh Sáu. Em hãy kể lại chuyện xảy ra ở gia đình anh Sáu trong 3 ngày anh nghỉ phép. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một truyện cảm động về tình cha con của những gia đình Việt Nam mà ở đó “lớp cha trước, lớp con sau, đã thành đồng chí chung câu quân hành”. Trong truyện đoạn cảm động nhất là đoạn “ba ngày nghỉ phép về quê của anh Sáu”. Năm 1946, năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, anh Sáu lên đường theo tiếng gọi của quê hương. Bấy giờ, bé Thu, con gái anh chưa đầy một tuổi. Chín năm đằng đẳng xa quê, xa nhà, anh Sáu vẫn mong có một ngày trở về quê gặp lại vợ con. Thế rồi, kháng chiến thắng lợi, anh được nghỉ 3 ngày phép về thăm quê, một làng nhỏ bên bờ sông Cửu Long. Về đến nhà, anh tưởng tượng bé Thu – con gái anh sẽ rất vui mừng khi được gặp cha. Giờ đây, nó cũng đã mười tuổi rồi còn gì. Mang một nỗi niềm rạo rực, phấn chấn, anh nôn nóng cho mau về đến nhà. Không chờ xuồng cập bến, anh đã nhảy lên bờ vừa bước, vừa gọi “Thu! Con!” thật tha thiết. Ta co thể tưởng tượng nỗi vui sướng của anh như thế nào. Khi anh vừa bước đi, vừa lom khom người xuống đưa tay chờ con. Thế nhưng ngược lại với những điều anh Sáu mong chờ. Bé Thu tròn mắt nhìn anh ngạc nhiên rồi bỏ chạy. Phản ứng của bé Thu khiến anh Sáu sửng sờ, đau khổ. Còn gì đáng buồn hơn khi đứa con mà anh hết lòng thương yêu và khắc khoải từng ngày để được gặp mặt, giờ đây trở nên xa lạ đến mức phũ phàng ấy. Thế rồi, anh Sáu tìm mọi cách gặp con để làm quen dần vì anh nghĩ rằng khi anh đi nó vừa mấy tháng tuổi nên nó lạ. Anh mong sao nó gọi một tiếng “ba”, vào ăn cơm nó chỉ nói trống không “Vô ăn cơm!” Bữa sau, cũng là ngày phép thứ hai, bé Thu trông hộ mẹ nồi cơm để chị Sáu chạy mua thức ăn. Trước khi đi, chị Sáu dặn nó có gì cần thì gọi ba giúp cho. Nồi cơm quá to mà bé thu thì còn nhỏ, vậy mà khi nồi cơm sôi không tìm được cách nào để chắt nước, loay hoay mãi, nó nhìn anh Sáu một lúc rồi kêu lên “Cơm sôi rồi, chắt nước dùm cái!” anh Sáu vẫn ngồi im, chờ đợi sự thay đổi của nó. Thế nhưng, nó nghĩ ra cách lấy vá múc ra từng vá nước chứ nhất định không chịu gọi anh Sáu bàng “Ba”. Con bé thật đáo để! Đến bữa ăn cơm, anh Sáu gắp cho bé Thu một cái trứng cá to, vàng bỏ vào chén. Lúc đầu nó để đó rồi bất thần hất cái trứng ra làm cơm đổ tung toé. Giận quá, không kìm được nữa, anh Sáu vung tay đánh vào mông nó. Thế là bé Thu vội chạy ra xuồng mở “lòi tói” rồi bơi qua sông lên nhà bà ngoại. Phép chỉ còn ngày cuối cùng, anh Sáu phải trở về đơn vị để nhận nhiệm vụ mới. Bao nhiêu mơ ước được hôn, ôm con vào lòng từ bấy lâu nay của anh Sáu giờ chỉ càng làm cho anh thêm đau lòng và gần như anh không còn để ý đến nó nữa. Thân nhân, họ hàng đến chia tay anh cũng khá đông nên anh cứ bịn rịn mãi. Chị Sáu cũng lo sắp xếp đồ đạc cho chồng, không ai quan tâm bé Thu đang đứng bơ vơ một mình bên cửa nhà. Thì ra nó theo bà ngoại trở về vì bà ngoại sang đây để tiễn chân anh Sáu. Giờ này, trên gương mặt Thu không còn cái vẻ bướng bỉnh, ương ngạnh nữa, mà thoáng một nét buồn trông đến dễ thương. Nó nhìn mọi người, nhìn anh Sáu. Đến lúc mang ba lô và bắt tay với mọi người, anh Sáu mới nhìn quanh tìm bé Thu. Thấy con, dường như mọi việc trong ba ngày phép hiện lên trong anh nên anh chỉ đứng nhìn con với bao nỗi xót xa … cuối cùng, anh cũng phải nói lên lời chia tay với con mà không hy vọng bé Thu sẽ gọi một tiếng “ba” thiêng liêng ấy. Thật là đột ngột và không ngờ, bé Thu chạy đến bên anh Sáu và tiếng “Ba!” được thốt lên thật cảm động biết nhường nào. Nó ôm chầm thật chặt như không muốn rời ba nữa. Nó khóc, khóc thật nhiều và thét lên những lời khiến mọi người xung quanh đều xúc động “Không cho ba đi nữa, ba ở nhà với con!” Sung sướng, hạnh phúc và cũng thật đau lòng, anh Sáu cũng chỉ biết ôm con và khóc cùng với con. Rồi cũng đến lúc phải chia tay, thật bịn rịn vô cùng. Vừa mới nhận được tiếng “ba” của đứa con thân yêu cũng là lúc phải nghẹn ngào chia tay với con để trở về đơn vị làm tròn trách nhiệm khi đang ở quân ngũ. Trước kia anh Sáu đã thương con, giờ đây anh càng thương con gấp bội. Bởi lẽ anh đã hiểu lí do vì sao bé Thu quyết định từ chối không gọi anh bằng “ba” từ ba hôm nay. Làm sao chấp nhận một người xa lạ mà khuôn mặt không giống trong tấm ảnh mà mẹ nó thường ngày vẫn nói với nó đó là “ba” được. Chính vết sẹo quái ác kia đã làm cho bé Thu không nhận anh Sáu, hằn học với anh Sáu. Sau khi hiểu rõ nguyên nhân của vết sẹo hằn trên gương mặt của ba, bé Thu mới thấy hổ thẹn và ăn năn. Tình cảm cha con bỗng dâng đầy, tràn ngập trong lòng em. Tình cảm đó được thể hiện bằng thái độ, cử chỉ dồn dập, gấp rút khi nó gọi và ôm chầm lấy anh Sáu. Ba ngày phép ngắn ngủi nhưng lại rất ngặng nề với anh Sáu và bé Thu. Nghịch cảnh này là một trong muôn ngàn nghịch cảnh khác mà đã có biết bao gia đình phải ngậm ngùi vì những ngộ nhận đáng thương. Đó cũng là một sự thật đau lòng của nước Việt Nam ta trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Như vậy Sài Gòn Tiếp Thị đã trình bày xong bài văn mẫu Đóng vai ông Sáu kể lại 3 ngày phép. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em học tốt môn Văn! Đăng bởi Sài Gòn Tiếp Thị Chuyên mục Lớp 9, Ngữ Văn 9 1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý 2. Dàn bài chi tiết a. Mở bài - Giới thiệu về hoàn cảnh của "tôi" Xa nhà đi kháng chiến Mấy năm ròng không được gặp con gái Chỉ biết ngắm nhìn con qua ảnh b. Thân bài - Kể về những ngày nghỉ phép Vui mừng khi gặp lại con nhưng con sợ hãi, không nhận ba Bé Thu từ chối mọi quan tâm, chăm sóc thậm chí hất văng cái trứng ra khỏi bát khi được ba gắp. Tức giận mà lỡ tay đánh con → Hối hận khôn nguôi Ngày lên đường, bé Thu khóc và gọi cha - Kể về những ngày về lại chiến trường Tham gia chiến đấu Tìm được khúc ngà voi và làm chiếc lược tặng con Trước lúc hi sinh gửi lại chiếc lược cho đồng đội nhờ chuyển đến bé Thu c. Kết bài - Cảnh gặp lại bé Thu trong tưởng tượng. 3. Bài văn mẫu Đề bài Em hãy đóng vai ông Sáu kể lại truyện ngắn Chiếc lược ngà dưới dạng một bài văn ngắn. Gợi ý làm bài Bài văn mẫu số 1 Tôi người chiến sĩ ở chiến trường Nam Bộ. Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, tôi bỏ lại mẹ già con thơ lên đường đi nhập ngũ. Giữa những năm tháng ác liệt của chiến tranh cha con tôi thật khó mà gặp mặt nhau được. Mãi đến khi con lên 8 tuổi tôi mới có dịp trở về thăm quê. Chuyến về thăm quê lần này để lại trong tôi hồi ức chẳng thể phai nhòa. Khi tôi lên đường nhập ngũ, bé Thu nhà tôi chưa đầy một tuổi. Những lần vợ tới thăm, tôi có nhắc vợ mang con theo để tôi thỏa nỗi nhớ thương con ấy thế nhưng hoàn cảnh lại chẳng thể cho phép. Chính vì thế mãi sau ngày khi ngày được về thăm quê tôi mới có cơ hội được gặp con. Cái tình nhớ con thương con cứ nao nao trong lòng tôi. Tôi bồn chồn cả đêm chẳng thể ngủ được, chỉ mong sao thời gian trôi thật nhanh để sớm được gặp con, ôm con vào lòng. Xuồng vừa cập bến nhác thấy bóng cô bé độ 8 tuổi, tóc cắt ngang vai mặc quần bông áo đỏ đang chơi trước nhà chòi, bằng giác quan thứ 6 và tình cha con mãnh liệt tôi linh cảm đó chính là Thu- con của tôi. Tôi nhảy vội lên bờ, kêu to “Thu, con” Tôi mường tượng ra con sẽ chạy đến ôm tôi, hôn tôi thắm thiết, cảnh cha con xúc động thế nhưng khi nghe tôi gọi con bé lại giật mình, tròn xoe mắt nhìn. Không kìm được nỗi lòng tôi xúc động chầm chậm bước tới, mỗi lần tôi xúc động vết thẹo dài trên má tôi lại đỏ ửng lên trong thật dễ sợ. Có lẽ vì thế mà khiến con bé khóc thét lên rồi chạy vội đi tìm mẹ của nó. Tôi cảm thấy mình như người xa lạ, trong lòng buồn bã đầy hụt hẫng. Trái tim tôi nhói lên đau đớn. Đứa con gái tôi mong ngóng, tôi đợi chờ lại không chấp nhận người cha này ư? Trong lòng tôi cứ dấy lên một nỗi lòng chẳng nguôi ngoai. Vì đường xa nên chúng tôi chỉ ở nhà được có ba ngày. Trong suốt ba ngày đó, chúng tôi cố ý để con bé gọi tôi một tiếng ba. Nhưng không, nó rất cứng cỏi, gan lì, bướng bỉnh. Dù có những lúc phải gọi tôi vào ăn cơm hay phải nhờ tôi chắt hộ nước nồi cơm, thì nó vẫn nói trỏng và cố ý không gọi tôi lấy một tiếng ba. Tôi khổ tâm trước thái độ của con bé. Và điều mà tôi ân hận nhất, trong những ngày được ở bên con, đó là tôi đã lỡ đánh vào mong và hét lên với con khi nó không chịu nhận miếng trứng cá mà tôi gắp cho nó. Sau khi bị ba đánh, Thu chạy sang bà ngoại, và không biết ở đó, nó được bà kể cho nghe chuyện gì, nhưng đến lúc nó về nhà, tôi thấy nó có vẻ khang khác. Sáng hôm đó, bà con nội ngoại đến rất đông để chia tay chúng tôi. Tôi phải lo tiếp khách nên không chú ý được đến con bé nhiều, con bé dường như cứ đứng hết nhìn mọi người rồi nhìn tôi. Không biết lúc đó, nó đã nghĩ gì? Nhưng nhìn con bé có vẻ buồn, một vẻ buồn trông rất dễ thương với một vẻ nghĩ ngợi sâu xa. Đến lúc, tôi phải lên đường, thấy nó đứng ở góc nhà, mặc dù rất muốn ôm hôn từ biệt con để đi xa, nhưng tôi sợ nó sẽ phản ứng như lúc tôi về. Nên tôi đành chỉ đứng nhìn con bé, nhìn với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu. Thế nhưng, ngược lại với những gì tôi nghĩ. Con bé bỗng kêu thét lên Ba…a…a…ba!, rồi sau tiếng kêu như xé lòng đó, nó chạy xô tới, nhanh như sóc, ôm chặt lấy cổ tôi. Nó vừa ôm, vừa hôn tôi, vừa khóc vừa giữ không cho tôi đi. Sau khi nó được mọi người giỗ dành, mới chịu buông để tôi lên đường. Trước khi tôi đi, con bé đã không quên dặn ba mua cho một cây lược. Sau đó chúng tôi trở lại chiến trường miền Đông, chúng tôi không phải đi tập kết nữa. Một ngày, tôi đã tìm được một khúc ngà voi. Tôi muốn tự tay làm cho con gái bé bỏng của mình một cây lược thật đẹp. Hằng ngày tôi tỉ mẩn chưa từng chiếc răng lược và còn cẩn thận khắc lên đó những dòng chữ yêu thương dành tặng cho con. Tôi mong rằng, chiến tranh kết thúc, mình sẽ được trở về, trao tận tay con bé món quà nhỏ ấy. Nhưng rồi, một chuyện không may đã xảy ra với tôi. Một ngày cuối năm mươi tám – trong một trận càn lớn của Mỹ – Ngụy, tôi đã bị thương nặng. Trước lúc lìa xa cõi đời, tôi đã kịp đứa cho anh Ba – người bạn chiến đấu của mình cây lược ngà với hi vọng rằng anh sẽ thay tôi trao tận tay cho con bé. Và dường như trong cơn hấp hối, tiếng anh Ba vẫn văng vẳng bên tai tôi “Tôi sẽ mang về trao tận tay cho cháu”. Bài văn mẫu số 2 Ngoài trời mưa tầm tã. Chiếc lán anh em tôi dựng hôm nào dột lỗ chỗ. Sau khi đánh thắng trận càn ác liệt của địch, anh em tôi quây quần bên nhau nghỉ ngơi, đàn hát và kể chuyện gia đình. Đó thực sự là những phút giây quý giá trong đời lính chúng tôi. Như thường lệ, tôi lôi từ trong áo ra chiếc lược làm bằng ngà đang làm dở để trau chuốt những công đoạn cuối cùng. Cầm chiếc lược trên tay, nỗi nhớ bé Thu trong tôi bỗng dâng lên mãnh liệt, cồn cào gan ruột. Tôi đem cuộc gặp gỡ của hai cha con bữa trước kể cho đồng đội nghe, hi vọng sẽ khuây khỏa phần nào… Thấm thoát cũng đã tám năm ròng kể từ ngày tôi từ biệt quê hương, gia đình, bạn bè tham gia vào cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Dẫu cho má nhỏ có vượt rừng thăm tôi vài lần, dẫu cho tấm ảnh má con nó vẫn được nâng niu và nhìn ngắm mỗi ngày thì cái cảm giác được gặp con, được ôm ấp cái “hình hài máu mủ” ấy vào lòng vẫn khiến tôi khao khát… Trước mặt tôi, hình ảnh những hàng dừa nước nghiêng mình xuống dòng kênh trước nhà bỗng chốc hiện ra. Bất chợt tôi nhìn thấy một bé gái độ tám tuổi, tóc cắt ngắn, mặc chiếc áo bông đang chơi dưới gốc cây trước nhà. Linh cảm của một người cha khiến tôi nhận ra đó chính là bé Thu – đứa con gái bé bỏng mà tôi khao khát, mong mỏi gặp mặt bấy lâu nay. Xuồng cập bến, tôi nhảy vọt lên bờ không để ý thấy dưới xuồng mọi người bị tôi làm cho chao đảo. - Thu! Con! Tôi hét thật to và chạy đến gần con. Với cuộc trở về đầy bất ngờ này tôi nghĩ con bé sẽ chạy thật nhanh đến mà ôm chầm lấy tôi, sẽ kêu to lên cho má nó trong nhà biết. Tôi dang hai tay, mở sẵn lòng để đón đứa con gái bé bỏng. Ba đây con! Nhưng, lạ chưa kìa, con bé ngơ ngác, tròn mắt ngạc nhiên như cố vắt óc ra xem tôi là ai. Tôi vẫn hi vọng và bước đến gần nó với đôi tay dang rộng. Nhưng thật lạ, con bé không chạy lại như tôi tưởng, nét mặt nó trở nên sợ sệt. Nó hét toáng lên “Má! Má!” rồi vội vàng chạy vô nhà. Tôi điếng, người, hai tay buông thõng. Tôi nhìn theo nó đang chạy vô nhà thật nhanh, chẳng dám quay mặt lại. Quay sang anh Ba, chúng tôi cùng lắc đầu. Anh Ba an ủi - Thôi, cứ yên tâm, trước sau gì nó cũng nhận ra cậu. Bố nó chứ ai mà nó lại không chịu nhận. Tôi cười mà nước mắt như muốn trào ra. Tại sao lại thế này? Đúng lúc đó, má nhỏ chạy ra mừng rỡ đỡ cái ba lô trên vai tôi rồi chạy đi báo tin cho mọi người. Giữa bộn bề những lời thăm hỏi của họ hàng làng xóm, dù cho phấn khởi thật nhưng tôi vẫn cảm thấy trong lòng trống trải. Thỉnh thoảng tôi đưa mắt lén nhìn con nhưng nó vẫn cứ trốn tránh cái nhìn của tôi. Trái tim tôi như rỉ máu. Vì đường sá xa xôi, tôi chỉ được ở nhà có ba ngày. Tôi dành toàn bộ thời gian của mình cho gia đình, đặc biệt là cho con. Đến bữa cơm, má nhỏ sai nó ra gọi tôi vô ăn cơm. Nó vùng vằng, lắc đầu nguầy nguậy không chịu gọi. Má nó đâm cáu, quơ đũa bếp dọa đánh đòn, nó mới tức tưởi gọi vọng ra từ cửa bếp - Vô ăn cơm! Câu nói đầu tiên nó nói với tôi từ khi trở về lại là một câu trống không. Tôi lặng người nhưng tôi cũng hiểu rằng khoảng cách tám năm đã ngăn cản tình cảm của cha con tôi. Tôi vẫn hi vọng, vẫn trông chờ tiếng gọi “ba” của nó. Bữa khác, má nó đang nấu cơm thì chạy vội đi mua thức ăn, dặn nó trông nồi. Nồi cơm sôi sùng sục, nó cầm đôi đũa đảo đi đảo lại mấy lượt. Nhưng đến công đoạn chắt nước, nó lượng sức mình không nhấc nổi mới cầu viện đến tôi - Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái! Lại một câu nói trổng, tôi lặng im không đáp, tiếp tục nhâm nhi chén trà đặc với anh Ba. Tôi cố tình tỏ ra không nghe thấy để mong sao con bé sẽ gọi một tiếng “ba” ấm áp, trìu mến. Nhưng không, con bé vẫn chẳng chịu gọi tôi là ba. Nó loay hoay hồi lâu rồi lấy cái vá múc ra từng vá nước. Con bé đáo để thật! Đến bữa cơm, tôi gắp miếng trứng cá to đặt vào bát nó - Ăn đi con! Nó không nói gì, rồi bất thần hất miếng trứng ra, cơm vãi tung tóe khắp mâm. Tôi giận quá, không kìm chế được, lấy tay phát liền hai cái vào mông nó, mắng - Sao mày cứng đầu quá vậy hả? Đánh con xong lòng tôi đau như xát muối. Lạ thay, nó chẳng khóc, cũng chẳng phụng phịu đạp đổ mâm cơm hay nhổ thức ăn trong miệng ra như những đứa trẻ khác. Nó cúi gằm mặt, lặng lẽ gắp miếng trứng cá vô chén, để ngay ngắn rồi lẳng lặng ra thuyền, sang bên nhà ngoại. Lúc này, tôi thấy ân hận hơn là giận con. Con bé không có lỗi, tất cả là do chiến tranh đã ngăn cách ba con chúng tôi. Đêm đã về khuya, tôi nằm thao thức không sao ngủ nổi, không biết giờ con bé thế nào rồi? Chắc nó giận và ghét tôi lắm. Không hiểu sao nước mắt tôi cứ trào ra. Sáng hôm sau tôi lên đường. Bận bịu chào mọi người, tôi không còn thời gian nghĩ tới nó nữa. Trước khi đi, tôi quay ra tìm con. Nó đang đứng ở góc nhà, thẫn thờ nhìn tôi, ánh mắt không còn hờn trách tôi nữa. Tôi muốn chạy đến ôm hôn từ biệt con nhưng sợ con bỏ chạy nên tôi chỉ đứng từ xa, nhìn thẳng vào mắt nó khe khẽ nói - Ba đi nghe con! Tôi vội quay mặt đi ngay. Nhưng trong lúc mọi người đều nghĩ nó sẽ lặng thinh thì - Ba..a…a…ba! Trời ơi! Tai tôi có nghe nhầm không vậy? Cái Thu đang gọi tôi đấy ư? Tôi còn chưa hết bàng hoàng thì con bé chạy đến ôm chầm lấy tôi và nói trong tiếng nấc nghẹn ngào - Con không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con cơ! Nói rồi, nó hôn lên cổ, lên tóc, lên má và lên cả vết thẹo dài trên má tôi. Tôi ôm nó vào lòng và thấy thật ấm áp biết bao. Tôi nói - Ba đi rồi ba lại về với con! - Không! Hai tay nó ôm chặt lấy cổ tôi. Đôi chân quặp ngang hai bên hông của tôi. Nó nức nở khóc và tôi cũng thấy khóe mắt cay cay. Đến khi má nó và bà ngoại dỗ dành, con bé mới chịu buông tôi ra. Nước mắt lưng tròng, nó nức nở; - Ba đi rồi về mua cho con cây lược nghe ba! Tôi gật đầu không thốt nên lời. Vì nhiệm vụ một lần nữa tôi gạt nước mắt ra đi, lên đường chiến đấu. Lần này, trong hành trang của mình, tôi mang theo lời hứa với con gái bé bỏng. Chắc chắn, tôi sẽ làm một cây lược thật đẹp để gửi về cho con… Ông trời như cũng chiều lòng ba con tôi. Một hôm khi đang tìm kiếm chất liệu làm lược trong rừng, tôi bất ngờ nhặt được một khúc ngà nho nhỏ. Tôi sung sướng vô cùng vì khúc ngà này sẽ giúp tôi làm một chiếc lược xinh xắn cho con bé. Chắc nó đang mong tôi lắm. Công việc làm lược không nhanh chóng như tôi tướng. Ngày ngày, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, tôi lại ngồi tỉ mẩn cưa từng chiếc răng lược một. Cứ thế… cứ thế rồi cũng đến ngày cây lược được hoàn thiện. Như để đánh dấu kỉ vật của hai ba con, tôi đã khắc lên sống lưng lược hàng chữ nhỏ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Hi vọng rằng con bé sẽ thích và vui khi nhận được món quà này. Thu à! Nhất định ba sẽ về, sẽ trao tận tay con cây lược. Khi nào đất nước thống nhất, ba sẽ về ở hẳn bên con, sẽ bù đắp những thiếu thốn tình cảm trong bao năm xa cách. Chờ ba con nhé! -Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-

đóng vai ông sáu